Mô tả SVT-40

Việc sử dụng cỡ đạn 7,62x54mmR cho STV-40 có sức mạnh rất tốt, với sức công phá vượt trội, tầm bắn xa. Sơ tốc đạn lên tới 840 mét/giây, có khả năng hạ gục mục tiêu ở khoảng cách 500 mét một cách dễ dàng, tầm bắn hiệu quả lên tới 1.000 mét khi sử dụng kèm với ống ngắm quang học. SVT-40 có độ bền và tính chính xác cao, lại là súng bán tự động nên tốc độ bắn cũng nhanh hơn hẳn các súng trường bắn phát một vào thời kỳ đó. Sử dụng trích khí ngắn với hộp đạn có thể tháo rời gồm 10 viên, khẩu súng trường bán tự động này có thể đạt tốc độ bắn tối đa lên tới 85 - 97 phát/phút (theo lý thuyết) hoặc 40 - 50 viên/phút (ngắm bắn trong thực tế), nghĩa là nhanh gấp 4 lần so với loại súng trường Mosin-Nagant phổ biến của quân đội Liên Xô lúc trước đó.

So về tính năng thì SVT-40 còn tốt hơn so với khẩu súng trường M1 Garand của Mỹ. Hồng Quân Xô Viết rất hãnh diện vì khẩu súng này và dự định sẽ sản xuất cả mấy triệu khẩu để thay thế cho súng trường bắn phát một Mosin-Nagant. Tuy nhiên, việc Đức tấn công Liên Xô vào năm 1941 khiến việc sản xuất SVT-40 bị chậm lại hẳn do các nhà máy phải ưu tiên sản xuất các loại súng khác. Tổng cộng đã có 1,6 triệu khẩu được sản xuất, bao gồm cả 50.000 khẩu thuộc phiên bản bắn tỉa.

Bằng chứng cho độ ưu việt của khẩu SVT-40 so với các loại vũ khí bộ binh cùng thời khác đó là nó rất được binh sỹ quân đội Đức quốc xã ưa thích và xem là một chiến lợi phẩm quý giá. Thậm chí quân Đức còn copy thiết kế trích khí, hộp đạn tháo rời của SVT-40 để sản xuất ra 400.000 khẩu súng trường Gewehr 43.

Lyudmila Mikhailovna Pavlichenko - xạ thủ bắn tỉa thành công nhất trong lịch sử với 309 lần tiêu diệt kẻ địch, chuyên sử dụng 1 khẩu SVT-40 có kính ngắm.

Tuy nhiên phiên bản bắn tỉa của SVT-40 tỏ ra kém hơn phiên bản bắn tỉa của súng Mosin-Nagant. Xạ thủ bắn tỉa thường phải căn chỉnh khá lâu trước khi bắn nên khả năng bắn bán tự động của SVT-40 ít khi có ích với họ, trong khi súng lại thiếu chính xác và dễ kẹt hơn so với Mosin-Nagant. Cứ mỗi viên đạn đầu tiên (viên đạn đầu tiên được bắn ra sau khi thay hộp tiếp đạn) ở khoảng cách 100 mét bị lệch lên phía trên một khoảng 10-25mm so với điểm rơi trung bình của các viên đạn còn lại. Độ lệch này là không đáng kể với bộ binh chiến đấu thông thường, nhưng với xạ thủ bắn tỉa chuyên bắn mục tiêu ở vài trăm mét thì đó là một độ lệch khá lớn. Tới năm 1941, hiện tượng này vẫn xuất hiện trên các súng sản xuất hàng loạt. Năm 1942, Liên Xô quyết địch ngưng sản xuất SVT-40 với kính ngắm PU, thay vào đó tiếp tục sản xuất Mosin 1891/30 và thay kính ngắm PE bằng kính ngắm PU.

Súng này cũng được Liên Xô cung cấp cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến tranh Việt Nam chống quân đội quân đội Mỹ và đồng minh trong chiến tranh Việt Nam. Số lượng vào Việt Nam của nó không nhiều bằng K44CKC, và nó cũng không được dùng nhiều như hai khẩu súng trường kia.